NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ SỰ VẬN DỤNG SÁNG TẠO, PHÁT TRIỂN CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ NIN TRONG CƯƠNG LĨNH ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG
Ths. ĐINH VĂN VIỄN
Năm 1911, với lòng yêu nước, khâm phục các bậc tiền bối đương thời (Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,...) nhưng không tán thành con đường, phương pháp cách mạng của họ, Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm con đường cứu nước mới, với mong muốn là “làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Sau gần mười năm tìm tòi khảo nghiệm, tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đã đọc Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin. Bản Luận cương đó đã đáp ứng nguyện vọng, khát khao tìm kiếm của Người. Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đoạ đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba” [6, tr. 127].
Tháng 12 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp. Người đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản, trở thành một trong những người sáng lập ra Đảng Cộng sản Pháp. Đây là mốc chuyển biến quan trọng trong quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc, từ một người yêu nước trở thành một chiến sĩ cộng sản, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa quốc tế vô sản. Vượt qua những hạn chế về tư tưởng của các nhà yêu nước tiền bối và đương thời, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, tìm được con đường cứu nước và giải phóng dân tộc: con đường cách mạng vô sản. Con đường đó đã đáp ứng yêu cầu khách quan của cách mạng Việt Nam và phù hợp với xu thế của thời đại – thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, mở đầu bằng cách mạng tháng Mười Nga (1917).
Sau khi đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực hoạt động trong phong trào Cộng sản công nhân quốc tế; đồng thời Người đã nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin về cách mạng thuộc địa, xây dựng hệ thống lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tổ chức truyền bá lý luận đó vào Việt Nam, từng bước chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người đã viết nhiều bài báo đăng trên các báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân, Thư tín Quốc tế, Sự thật và các tác phẩm: Bản án chế độ thực dân Pháp, Đường cách mệnh,… nhằm vạch trần tội ác của chủ nghĩa thực dân và từng bước truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào phong trào công nhân, phong trào yêu nước. Cuối năm 1924, Người về Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây, Người đã tiếp cận tổ chức Tâm tâm xã- một tổ chức của những người Việt Nam yêu nước, giúp đỡ, cải tổ và thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (6 – 1925). Đây là một bước chuẩn bị có ý nghĩa quyết định về mặt tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự ra đời và hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên có ảnh hưởng ngày càng mạnh mẽ đến phong trào cách mạng Việt Nam, làm cho khuynh hướng cứu nước, giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản ngày càng chiếm ưu thế. Sự truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin của Nguyễn Ái Quốc vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước, cùng với việc xây dựng các tổ chức chi hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở cả ba kỳ đã thúc đẩy phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ, dẫn đến sự ra đời của ba tổ chức cộng sản: Đông Dương Cộng sản Đảng (6 - 1929), An Nam Cộng sản Đảng (8 - 1929) và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (9 - 1929).
Đầu năm 1930, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản để lập ra một Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam. Hội nghị bắt đầu họp ngày 06 tháng 01 năm 1930, tại Cửu Long, Hương Cảng (Trung Quốc). Tham dự Hội nghị có Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh, Châu Văn Liêm, Nguyễn Thiệu. Hội nghị đã thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng.., do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Các văn kiện đó hợp thành Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta. Bản Cương lĩnh rất ngắn gọn, cô đọng, đã xác định những vấn đề cơ bản về chiến lược, sách lược, phương hướng, nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của Đảng, của cách mạng Việt Nam.
Phân tích tình hình kinh tế - xã hội ở Việt Nam, Cương lĩnh chỉ rõ: “Tư bản bản xứ đã thuộc tư bản Pháp, vì tư bản Pháp hết sức ngăn trở sức sinh sản làm cho công nghệ bản xứ không thể mở mang được. Còn về nông nghệ một ngày một tập trung đã phát sinh ra lắm khủng hoảng, nông dân thất nghiệp nhiều. Vậy tư bản bản xứ không có thế lực gì ta không nên nói cho họ đi về phe đế quốc được, chỉ bọn đại địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ nghĩa nên chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” [5, tr. 1]. Như vậy, ngay trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ cách mạng Việt Nam phải đi từ cách mạng giải phóng dân tộc đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, đây là nội dung cốt lõi, sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng của Người.
Về nhiệm vụ cụ thể của cách mạng: Về chính trị, đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng ra Chính phủ công nông binh và tổ chức ra quân đội công nông.
Về kinh tế, tịch thu toàn bộ các sản nghiệp lớn của bọn đế quốc giao cho chính phủ công nông binh, tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc làm của công và chia cho dân cày nghèo, mở mang công nghiệp và nông nghiệp, miễn thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm 8 giờ.
Về văn hoá xã hội, dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo hướng công nông hoá.
Những nhiệm vụ trên đây đã bao gồm cả hai nội dung dân tộc và dân chủ, chống đế quốc chống phong kiến, song nổi lên hàng đầu là nhiệm vụ chống đế quốc giành độc lập dân tộc. Như vậy, ngay trong các văn kiện thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã đặt vấn đề giải phóng dân tộc lên trên hết, trước hết. Đó là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc và giai cấp vào thực tiễn cách mạng Việt Nam của Người.
Theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, vấn đề quan trọng, cốt lõi của cách mạng vô sản là đấu tranh giai cấp. Nguyễn Ái Quốc đã nghiên cứu sâu và nắm vững chủ nghĩa Mác – Lênin, trong đó có vấn đề dân tộc và giai cấp. Theo Người, “Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại” [4, tr. 465]. Người cho rằng ở các nước Tây Âu là các quốc gia, dân tộc độc lập, không có sự xâm lược của chủ nghĩa đế quốc mà chính các nước đó lại đi xâm lược, áp bức thuộc địa. Mặt khác, ở các nước Tây Âu sự phân hoá giai cấp diễn ra sâu sắc giữa tư sản và vô sản. Giai cấp vô sản đấu tranh lật đổ tư sản, thiết lập chuyên chính vô sản để giải phóng cho giai cấp mình nhưng đồng thời cũng giải phóng cho dân tộc khỏi sự kìm hãm của giai cấp tư sản. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác đã kêu gọi: “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc, tuy hoàn toàn không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu” [8, tr. 623].
Vấn đề Mác, Ăngghen quan tâm là vấn đề mà xã hội Tây Âu quan tâm: đấu tranh giai cấp. Điều đó hoàn toàn đúng ở Tây Âu. Đưa vấn đề đó vào Việt Nam thì đúng nhưng chưa đủ, vì ở Việt Nam xã hội thuộc địa, nửa phong kiến, mâu thuẫn giai cấp chưa phát triển cao như ở Tây Âu. Người phõn tớch rõ “Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra như ở phương Tây”, bởi vì “về mặt cấu trúc kinh tế, không giống các xã hội phương Tây thời Trung cổ, cũng như thời cận đại, và đấu tranh giai cấp ở đó không quyết liệt như ở đây” [4, tr. 465]. Nguyễn Ái Quốc phân tích làm sáng rõ: “Những địa chủ hạng trung và hạng nhỏ và những kẻ mà ở đó được coi là đại địa chủ thì chỉ là những tên lùn tịt, bên cạnh những người trùng tên với họ ở châu Âu và châu Mỹ”... “nếu nông dân gần như chẳng có gì thì địa chủ cũng không có vốn liếng gì lớn; nếu nông dân chỉ sống bằng cái tối thiểu cần thiết thì đời sống của địa chủ cũng chẳng có gì là xa hoa; nếu thợ thuyền không biết mình bị bóc lột bao nhiêu thì chủ lại không hề biết công cụ để bóc lột của họ là máy móc. Sự xung đột về quyền lợi của họ được giảm thiểu. Điều đó, không thể chối cãi được” [4, tr. 464].
Mặt khác, Việt Nam còn bị sự xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, dân tộc còn nô lệ. Cho nên, địa chủ, nông dân, tư sản dân tộc, tiểu tư sản đều có điểm tương đồng là người dân nô lệ, mất nước và có nguyện vọng giải phóng dân tộc. Mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam cần giải quyết là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc xâm lược. Vì vậy, muốn giải phóng giai cấp vô sản theo học thuyết Mác – Lênin thì trước hết phải giải phóng cho dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Có giải phóng được dân tộc mới giải phóng được giai cấp, nếu chỉ đấu tranh giải phóng giai cấp thì không thể giải phóng được giai cấp và cũng không thể giải phóng được dân tộc.
Nắm vững bản chất cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã độc lập, tự chủ đề ra đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn cho cách mạng Việt Nam, không giáo điều, rập khuôn. Từ sự phân tích, thấy rõ vai trò, vị trí của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, Người chủ trương liên minh các giai cấp, các tầng lớp yêu nước: “Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn địa chủ và phong kiến. … Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt,.v.v.. để lôi kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến v.v..) thì phải đánh đổ” [5, tr. 3]. Nguyễn Ái Quốc đặt giải phóng dân tộc lên hàng đầu nhằm đoàn kết tập hợp hết thảy các lực lượng yêu nước, thương nòi, tạo ra sức mạnh dân tộc chống chủ nghĩa đế quốc, giành độc lập tự do cho Tổ quốc là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Đồng thời, Người luôn đứng vững trên lập trường, quan điểm của giai cấp vô sản để giải quyết vấn đề dân tộc: “Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thoả hiệp” [5, tr. 3]. Như vậy, Nguyễn Ái Quốc đã đứng vững trên lập trường của giai cấp vô sản để giải quyết vấn đề dân tộc. Tư tưởng của Người được thể hiện trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng “là một cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo theo con đường cách mạng Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử, nhuần nhuyễn quan điểm giai cấp và thấm đượm tinh thần dân tộc vì độc lập tự do, tiến hành cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng ruộng đất để đi tới xã hội cộng sản là tư tưởng cốt lõi của cương lĩnh này” [1, tr. 58]. Tư tưởng đó đã soi sáng cho Đảng và nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi trong tổng khởi nghĩa cách mạng Tháng Tám (1945).
Lựa chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc, vấn đề giai cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc do giai cấp vô sản lãnh đạo ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến. Đúng như Lê Duẩn đã viết: “Chủ nghĩa xã hội của Mác – Lênin đã được nhà cách mạng sáng suốt nhất và cũng đầy nhiệt huyết nhất của dân tộc Việt Nam hoà và trao lại cho giai cấp công nhân Việt Nam. Nhà cách mạng ấy là đồng chí Nguyễn Ái Quốc” [1, tr.58].
Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên quan điểm giai cấp, tăng cường và mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và trí thức làm nền tảng; mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”
Tài liệu tham khảo
[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB CTQG - Hà Nội 2005.
[2] Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2005.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB CTQG, Hà Nội 2001.
[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1, NXB CTQG, Hà Nội 2000.
[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, NXB CTQG, Hà Nội 2000.
[6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, NXB CTQG, Hà Nội 2000.
[7] Lê Duẩn, Một số đặc điểm của cách mạng Việt Nam, NXB Sự thật, Hà Nội 1987.
[8] C. Mác và Ph. ăngghen, Toàn tập, tập 4, NXB CTQG, Hà Nội, 1995.
[9] Nguyễn Thành, Quốc tế Cộng sản với vấn đề dân tộc và thuộc địa, NXB Sách giáo khoa Mác - Lênin, Hà Nội, 1987.
(Bài của Đinh Văn Viễn tham gia Hội thảo toàn quốc“Một tế kỉ Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước”, Đại học Sài Gòn tổ chức, ngày 10-6-2011)
http://www.sgu.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=1759:tun-2-thang-06-0606-1206&catid=63:lch-cong-tac-tun
http://www.sgu.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=1759:tun-2-thang-06-0606-1206&catid=63:lch-cong-tac-tun
Địa chỉ liên lạc:
Đinh Văn Viễn
Khoa Xã hội – Du lịch, Trường Đại học Hoa Lư
Phường Ninh Nhất, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình.
ĐT: 0949797915.
Email: dinhvanviendhhl@gmail.com