Hội thảo Khoa học toàn quốc
“ĐỔI MỚI KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ
ĐÁP ỨNG YÊU CẦU NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO THEO HỆ THỐNG TÍN
CHỈ”
VẤN ĐỀ TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN
TRONG ĐÀO TẠO THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ
1. Bản chất của việc tự học là gì?
Về
bản chất, quá trình học tập của sinh viên ở bậc đại học là quá trình nhận thức
có tính nghiên cứu. Điều này đã được thể chế hóa trong Luật giáo dục như sau:
“Phương pháp giáo dục đại học phải coi trọng bồi dưỡng năng lực tự học, tự
nghiên cứu, tạo điều kiện cho người học phát triển tư duy sáng tạo, rèn luyện
kỹ năng thực hành, tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng.”
Do vậy, dù ở phương thức đào tạo đại
học nào, người sinh viên cũng cần phải có năng lực tự học, hay nói cách khác:
“tự học là cách học ở bậc đại học”.
Tự
học (self - study) là sự nỗ lực chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng của bản thân của
người học để hướng tới những mục đích học tập nhất định. Các nhà khoa học giáo
dục đã nghiên cứu vấn đề tự học dưới nhiều góc độ nhưng một cách chung nhất có
thể hiểu tự học là quá trình tự giác, độc lập, tích cực, sử dụng các năng lực
trí tuệ, phẩm chất của bản thân người học để người học chiếm lĩnh được tri thức
của nhân loại và những kinh nghiệm lịch sử xã hội, biến những tri thức đó thành
sở hữu của mình, hình thành kỹ năng, thái độ và ngày càng hoàn thiện nhân cách
của bản thân.
"Bản
chất của công việc tự học của sinh viên đại học là quá trình nhận
thức một cách tự giác, tích cực, tự lực không có sự tham gia hướng dẫn
trực tiếp của giáo viên nhằm đạt được mục đích, nhiệm vụ dạy học" [4-23]. Đó là một quá trình “lao động
khoa học” vất vả hơn nhiều so với việc học có sự hướng dẫn trực tiếp của thầy
giáo. Tự học vừa mang ý nghĩa củng cố trau dồi tri thức và có ý nghĩa mở rộng
hiểu biết. Tự học có nghĩa là sinh viên phải độc lập, tự xây dựng kế hoạch,
phương pháp học tập cho mình, tự năng động tìm tòi, phân tích tài liệu tiến tới
làm chủ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, tự kiềm chế đối với những ảnh hưởng ngoại
cảnh hay những ước muốn không hợp lẽ trong tư tưởng là điều kiện cần thiết đối
với quá trình tự học. Có thể nói quá trình tự học của sinh viên là một quá
trình tự nỗ lực, quyết tâm, tích cực để đạt được mục tiêu học tập. Nếu thiếu sự
nỗ lực thì sinh viên không thể đạt kết quả tốt, đây cũng chính là điều kiện để
sinh viên nâng cao chất lượng học tập của bản thân và các trường đại học nâng
cao chất lượng giáo dục.
2. Việc tự học của sinh
viên có vai trò như thế nào trong đào tạo theo học chế tín chỉ?
Trong
đào tạo đại học dù theo phương thưc niên chế hay tín chỉ thì tự học của người học
luôn đóng vai trò quan trọng. Tự học là nhân tố trực tiếp trong việc nâng cao
chất lượng đào tạo của nhà trường. tự học của sinh viên không chỉ là một nhân tố
quan trọng trong lĩnh hội tri thức mà còn có ý nghĩa to lớn trong việc hình
thành nhân cách sinh viên. Khi học
đại học giảng viên đóng vai trò là người hướng dẫn, cung cấp tài liệu, hướng dẫn,
sinh viên phải tự biết cách sắp xếp thời gian và trình tự nghiên cứu những kiến
thức cơ bản và mở rộng tìm hiểu những vấn đề liên quan. Tự học giúp sinh viên
nâng cao năng lực tư duy, tìm tòi khám phá ra những vấn đề mới, nó giúp sinh
viên hiểu rõ bản chất của vấn đề một cách sâu sắc nhất. Việc tự
học rèn luyện cho sinh viên thói quen độc
lập suy nghĩ, độc lập giải quyết vấn đề khó khăn trong nghề nghiệp, trong cuộc
sống, giúp cho họ tự tin hơn trong việc lựa chọn cuộc sống cho mình. Hơn thế, tự
học thúc đẩy sinh viên lòng ham học, ham hiểu biết, khát khao vươn tới những
đỉnh cao của khoa học, sống có hoài bão,
ước mơ.
Đối với phương thưc đào tạo theo học
chế tín chỉ, do đặc thù của nó nên vấn đề tự học của sinh viên càng có vai trò
quan trọng hơn.
Thứ nhất, ở phương thức đào tạo theo tín
chỉ, kế hoạch học tập cụ thể phụ thuộc vào chính bản thân người học. Sinh viên
có nhiệm vụ và quyền được lựa chọn môn học, thời gian học, tiến trình học tập
nhanh, chậm phù hợp với điều kiện của mình. Phương thức này tạo cho sinh viên
năng lực chủ động trong việc lập kế hoạch học tập khoa học, xác định thời gian,
phương tiện, biện pháp để thực hiện các mục tiêu đề ra trong kế hoạch học tập
đó. Khi đó người sinh viên phải ý thức xây dựng kế hoạch tự học, tự nghiên cứu
sao cho quá trình học tập hiệu quả nhất.
Thứ hai, hình thức tổ chức dạy học trong
phương thức tín chỉ qui định hoạt động tự học của sinh viên như là một thành
phần bắt buộc trong thời khóa biểu và là một nội dung quan trọng của đánh giá
kết quả học tập. Hoạt động dạy - học theo tín chỉ được tổ chức theo ba hình
thức: lên lớp, thực hành(có sự tiếp xúc giữa người dạy và người học) và tự học
(không có sự tiếp xúc giữa người dạy và người học). Cách tổ chức thực hiện một
giờ tín chỉ cho chúng ta thấy một đặc điểm rất quan trọng góp phần tạo nên sự
khác biệt với phương thức đào tạo truyền thống. Nếu hoạt động tự học trong học
chế niên chế chỉ mang tính chất tự nguyện thì phương thức đào tạo theo học chế
tín chỉ coi tự học là một thành phần hợp pháp và bắt buộc phải có trong hoạt
động học tập của sinh viên. Để học được 1 giờ lý thuyết hay 2 giờ thực hành,
thực tập trên lớp sinh viên cần phải có 2 hay 1 giờ chuẩn bị ở nhà. Đó là yêu
cầu bắt buộc trong cơ cấu giờ học của sinh viên.
Thứ ba, trong nội dung một bài giảng
trong hệ thống tín chỉ luôn có phần dành riêng cho tự học, chuẩn bị bài, làm
bài tập, thảo luận nhóm, xemina, làm thí nghiệm… và các hoạt động khác có liên
quan đến môn học. Như vây, kiến
thức của mỗi môn học được phát triển thông qua những tìm tòi của người học dưới
sự hướng dẫn, giúp đỡ của giảng viên. Nếu sinh viên không tự học thì họ mới chỉ
lĩnh hội được đầy đủ khối lượng kiến thức của môn học và như vậy đồng nghĩa với
việc họ không đạt được yêu cầu của môn học đó.
Ngoài ra, hoạt động tự học được kiểm tra,
đánh giá thường xuyên thông qua các bài kiểm tra, bài tập, các buổi thảo luận ,…trong
suốt cả quá trình học.
Như
vậy, trong phương thức đào tạo theo tín chỉ, hoạt động tự học của sinh viên là
rất quan trọng, là hoạt động mang tính bắt buộc.
3.
Làm thế nào để việc tự học của sinh viên có hiệu quả?
Chất lượng và hiệu quả của hoạt động
tự học phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố trực tiếp và gián tiếp. Trong đó chúng ta
phải thừa nhận vai trò đặc biệt quan trọng của người dạy, người học và điều
kiện phục vụ tự học trong việc đẩy mạnh hoạt động tự học của sinh viên
a. Người dạy – là yếu
tô quan trọng nhất
Người dạy đóng vai trò quan trọng
hàng đầu trong việc định hướng và kích thích ý thức tự học cho sinh viên. Không
phải giảng viên chỉ có nhiệm vụ quan trọng trong những giờ lên lớp còn những
giờ tự học, tự nghiên cứu của sinh viên thì không cần can thiệp. Ngược lại, đối
với hoạt động tự học của sinh viên, giảng viên phải quan tâm hơn. Đối với hoạt
động tự học, giảng viên cần kịp thời tư vấn khi sinh viên cần.
Để thực hiện được vai trò của mình,
người dạy cần thực hiện một số công việc sau:
* Giúp sinh viên nắm được đề cương môn học
Khi bắt đầu một môn học, người dạy
cần giới thiệu và cung cấp cho sinh viên đề cương của môn học đó. Nội dung của
đề cương phải thể hiện được: Mục đích môn học, Mục tiêu môn học, Nội dung chi
tiết của môn học, Điều kiện tiên quyết, Hình thức tổ chức và phương pháp dạy -
học cho từng nội dung của môn học, Hình thức kiểm tra - đánh giá của từng hoạt
động học tập…Qua đó, sinh viên chủ động lên kế hoạch tự học, tự nghiên cứu để
thực hiện được các mục tiêu của môn học. Giảng viên cần phải tuân thủ theo đúng
kế hoạch trong đề cương và yêu cầu sinh viên nghiêm túc thực hiện đề cương này.
* Xác định rõ nội dung tự học và
phương tiện, cách thức để thực hiện nội dung đó.
Trong đào tạo theo tín chỉ phần
kiến thức cốt lõi là phần giảng viên thực hiên trên lớp, nội dung kiến thức bổ
sung, mở rộng là những nội dung của hoạt động tự học. Giảng viên cần thiết kế
các nhiệm vụ tự học cụ thể để sinh viên có thể tự chiếm lĩnh được
các nội dung này, đáp ứng mục tiêu và yêu cầu của từng bài học trong một khoảng
thời gian định trước. Để giúp sinh viên thực hiện được nhiệm vụ tự học của
mình, giảng viên cần giới thiệu đầy đủ các tài liệu bắt buộc, tài liệu tham
khảo, cách thu thập, tra cứu và xử lý thông tin trong tài liệu với những hướng
dẫn chi tiết, cụ thể. Bên cạnh đó, giảng viên cần tăng cường hướng dẫn, giúp đỡ
sinh viên xây dựng kế hoạch tự học khoa học, hợp lý, phù hợp với điều kiện của
mình để đạt tới đích một cách hiệu quả nhất. GV cần phải hướng dẫn cho SV
phương pháp để học tập có hiệu quả, biết lập dàn bài, sơ đồ hóa tri thức để học
tập và ghi nhớ…
* Kiểm tra - đánh giá hoạt động tự
học của sinh viên
Ngay khi giao nhiệm vụ tự học, tự
nghiên cứu cho người học, người dạy cần phải chỉ cho người học biết rõ các tiêu
chí đánh giá, xác định thời gian nộp báo cáo kết quả tự học, tự nghiên cứu của
sinh viên.
Giảng viên thường xuyên đánh giá sinh
viên trong suốt quá trình của môn học thông qua các hình thức kiểm tra đa dạng
như bài tập cá nhân (tuần); bài tập nhóm (tháng); bài tập lớn (học kỳ thông
thường là một bài tổng luận về môn học) và các bài thi giữa kỳ, cuối kỳ. Qua đó
hình thành cho sinh viên cách làm việc nghiêm túc, tính tích cực và ý chí phấn
đấu vươn lên để đạt kết quả cao trong học tập
*
Điều quan trong trong quá trình hướng dấn người học tự học đó là người dạy phải kích thích nhu cầu tự
học và niềm tin vào khả năng tự học của SV. GV cần khen ngợi, động viên, khích
lệ cũng như có những chế tài kịp thời.
b. Người học – yếu tố quyết định nhất
Hoạt động tự học chỉ có thể thực sự đem lại hiệu quả
khi có sự nỗ lực của bản thân chủ thể tham gia, đó chính là sinh viên. Khi
chuyển sang phương thức đào tạo theo tín chỉ, sinh viên phải thay đổi nhận
thức, phải xác định hoạt động tự học là một khâu then chốt trong qua trình học
tập, tích luỹ kiến thức, từ đó xác định động cơ học tập, tự giác và sáng tạo
trong việc chiếm lĩnh tri thức.
Để hoạt động tự học đạt hiệu quả người học cần thực
hiện một số công việc sau:
* Nắm vững mục tiêu của môn
học và mục tiêu của từng bài học (mà thông thường được mô tả khá kỹ trong đề
cương môn học được cung cấp khi bắt đầu học môn học) để làm cơ sở xây dựng kế
hoạch tự học phù hợp và nghiêm túc thực hiện kế hoạch đó.
* Nhận và xây dựng kế
hoạch chi tiết thực hiện nhiệm vụ tự học, tự nghiên cứu mà giảng viên giao.
* Hoàn thành các nhiệm vụ
tự học, tự nghiên cứu trước giờ lên lớp: đọc tài liệu, làm các bài tập, bài
kiểm tra, thảo luận nhóm theo yêu cầu của giảng viên. Hệ thống hóa, lưu giữ tài liệu, kết
quả tự học, tự nghiên cứu thuận tiện cho việc tra cứu, sử dụng sau này.
* Trong quá trình tự học,
sinh viên cần suy nghĩ, sáng tạo và mạnh dạn đưa ra những ý kiến, nhận xét,
thắc mắc của mình mà không quá phụ thuộc vào tài liệu và những bài giảng của
giảng viên.
Việc tự học của sinh viên
rất đa dạng. Sau đây là một vài phương pháp tự học:
Học ở lớp: Tập trung nghe giảng, suy nghĩ, mạnh dạn và hăng hái phát biểu bài ở lớp bởi
vì ta thường nhớ rất nhanh và rất bền
điều mà ta hiểu. Tích cực trong những bài tập nhóm tại lớp. Kết hợp với việc sử
dụng các thao tác tư duy và ghi chép bài trên lớp, tự ghi những ý cơ bản, có
chọn lọc, ghi nhanh, tạo những chữ viết tắt cho riêng mình và tránh thay đổi
nó, phối hợp nhiều màu mực trong cách ghi bài để thể hiện một dàn bài hiệu quả.
Một bài ghi như thế sẽ giúp ích rất nhiều trong việc học tại nhà. Những kiến
thức chưa rõ, chưa hiểu mạnh dạn hỏi giáo viên và bạn bè ngay trong giờ học.
Cuối mỗi giờ học nên đọc lại nội dung bài ghi nhằm tóm lược lại những vấn đề
vừa được học.
Tự
học ở nhà: Tự học ở
nhà chính là bước giúp sinh viên đào sâu suy nghĩ, hệ thống lại những tri thức
đã lĩnh hội. Đây là thời gian học không có giáo viên, nhưng chiếm tỷ lệ thời
gian rất lớn trong việc tự học. Vì vậy việc xây dựng kế hoạch tự học ở nhà là
điều rất cần thiết và hiệu quả cao trong việc tự học của sinh viên. Mỗi người,
tùy vào nhu cầu của mình, sẽ lập một kế hoạch học tập riêng, kế hoạch đó có thể
thay đổi khi cần, nhưng điều quan trọng nhất là phải tuân theo kế hoạch đề ra.
c. Cơ sở vật chất,
các điều kiện phục vụ – là yếu tố cơ bản
tác động đến kết quả việc tự học của sinh viên
Hoạt động tự học của sinh
viên không thể thực hiện tốt nếu không đảm bảo các điều kiện cần thiết về cơ sở
vật chất: phòng học, trang thiết bị học tập, nguồn học liệu… Trong đó hệ thống
nguồn học liệu đầy đủ về số lượng, phong phú về nội dung và chuẩn mực về chất
lượng là một yêu cầu không thể thiếu trong hoạt động tự học của sinh viên. Nhận
thức được vai trò quan trọng của yếu tố này, các nhà trường cần có kế hoạch để
không ngừng cải thiện điều kiện cơ sở vật chất của mình như:
- Củng cố, nâng cấp, mở
rộng hệ thống phòng học, phòng thí nghiệm - thực hành - thực tập, thư viện; bám
sát yêu cầu cúa các đề cương môn học để chuẩn bị các học liệu được coi là bắt
buộc ghi trong đề cương môn học.
- Tăng cường khả năng
khai thác các tiện ích của mạng nội bộ, mở rộng nguồn tư liệu điện tử, thiết bị
dạy học… bằng cách ứng dụng các thành tựu công nghệ thông tin hiện đại.
Ngoài các điều kiện về cơ sở vật
chất, khi xem xét các điều kiện phục vụ hoạt động tự học, các nhà quản lý cũng
cần quan tâm tới các điều kiện phục vụ, thái độ phục vụ sinh viên của các bộ
phận chuyên trách, các chính sách hỗ trợ của nhà trường để tạo cho sinh viên
một môi trường học tập tốt nhất.
Kết luận
Tự học bao giờ cũng là một nhân tố
quyết định trong giáo dục đại học. Trong đào tạo theo phương pháp tín chỉ, tự
học lại càng quan trong hơn. Đó là con đường duy nhất đúng đắn để người học
hoàn thiện bản thân trên con đường chiếm lĩnh tri thức cũng như nhà trường hoàn
thành sứ mệnh của mình. Người viết xin được kết thúc bài viết bằng quan điểm
nổi tiếng của một giáo sư người Mỹ, Isaac Asimov (1920-1992): Chỉ có thể bằng
con đường tự học sinh viên mới có thể học hỏi được điều gì đó. Nhiệm vụ duy
nhất của Nhà trường là tạo thuận lợi cho quá trình tự học. Nếu như không làm
được điều này, Nhà trường sẽ đánh mất ý nghĩa tồn tại của mình.
Để việc tự học của sinh
viên đạt hiệu quả cao đương nhiên phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng thiết nghĩ 3
yếu tố trên đây (“Người học”, “Người dạy” và “cơ sở vật chất”) là quan trọng
nhất. Giữa các yếu tố này có mối quan hệ biện chứng với nhau trong đó “Người
học” là yếu tố giữ vai trò quyết định. Việc thực hiện đồng bộ các yêu cầu đối
với các yếu tố trên là điều kiện quan trọng góp phần cho việc tự học của sinh
viên đạt hiệu quả - một yếu tố quan trọng góp phần làm nên chất lượng trong đào
tạo theo học chế tín chỉ./.
Tài liệu tham khảo
[1] Trần Anh Tuấn, Vấn đề tự học của sinh viên từ góc độ đánh giá
chất lượng kỹ năng nghề nghiệp, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, 5 (1996) 18.
[2] Nguyễn Kỳ, Biến quá trình dạy học thành quá trình tự học, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 2/2006.
[3] Quy
chế Đào tạo đại học và cao đẳng Hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ kèm theo Quyết định số 43/2007/BGD&ĐT.
[4] Hà Thị Đức, Về
hoạt động tự học của sinh viên sư phạm, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, 4
(1992) 23.
[5] Phan Bích Ngọc, Tổ chức tốt việc tự học cho sinh viên nhằm nâng cao chất lượng đào tạo
của các trường Đại học theo hình thức tín chỉ hiện nay, Tạp chí Khoa học
ĐHQGHN, Ngoại ngữ 25 (2009) 160-164.
[6] Nguyễn Văn Khôi, Lí luận dạy học công nghệ, Nhà xuất bản ĐHSP HN, 2005.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét