BÀI HỌC VỀ DÂN CHỦ TỪ VIỆC DỜI ĐÔ CỦA LÝ THÁI TỔ
Đinh Văn Viễn
Đã và sẽ còn có rất nhiều lời tán tụng, ca ngợi việc
thiên đô, Thiên đô chiếu
của Lý Thái Tổ. Điều này là hiển nhiên bởi ý nghĩa, và tầm vóc lịch sử của việc
làm đó. Trong đó tinh thần dân chủ, trọng dân của vị Hoàng đế đứng đầu đất nước
Lý Thái Tổ cũng được thể hiện khá đậm nét.
Chúng ta cùng đọc
lại ghi chép của Đại Việt sử kí toàn thư về sự kiện này:
“Vua thấy thành Hoa Lư ẩm thấp chật hẹp, không đủ làm chỗ ở của đế vương, muốn dời đi nơi khác, tự tay viết chiếu truyền rằng: Ngày xưa nhà thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, Nhà chu đến Thành Vương ba lần dời đô, há phải các vua thời Tam Đại ấy theo ý riêng tự tiện dời đô xằng bậy đâu. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời.
“Vua thấy thành Hoa Lư ẩm thấp chật hẹp, không đủ làm chỗ ở của đế vương, muốn dời đi nơi khác, tự tay viết chiếu truyền rằng: Ngày xưa nhà thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, Nhà chu đến Thành Vương ba lần dời đô, há phải các vua thời Tam Đại ấy theo ý riêng tự tiện dời đô xằng bậy đâu. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời.
Huống chi thành
Đại La, đô cũ của Cao
Vương, ở giữa khu vực
trời đất, được thế rồng cuộn, hổ ngồi chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông
sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư
không khổ,
thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước
Việt đó là nơi thắng
địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư
mãi muôn đời.
Trẫm muốn nhân địa
lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?
Bề tôi đều nói: “Bệ hạ vì thiên hạ lập kế dài lâu,
trên cho nghiệp đế được thịnh vượng lớn lao, dưới cho dân chúng được đông đúc
giầu có, điều lợi như thế ai giám không theo.” Vua cả mừng.”(
Đại việt sử ký toàn thư, tập 1, Nxb. KHXH, H, 2004).
Nội dung trong sử ghi chép đấy chính là nội dung của
một buổi nghị đình hay còn còn gọi là một buổi đại triều. Vua Lý Thái Tổ trước khi đưa ra quyết định rời đô đã
cùng họp với các quan đại thần bàn kỹ lưỡng. Lý Thái Tổ đưa ra lý lẽ của việc
chuyển đô từ Hoa Lư ra Thăng Long:
- Dời đô là việc vô cùng hệ trọng, không thể “ấy theo ý riêng tự tiện ”.
- Mục đích của việc dời đô là nhằm "Mưu toan nghiệp
lớn, tính kế cho con cháu muôn vạn đời".
- Không thể tiếp tục đóng đô ở Hoa Lư được nữa bởi: “thành
Hoa Lư ẩm thấp chật hẹp, không đủ làm chỗ ở của đế vương”. Nếu cứ tiếp tục
đóng đô ở đây sẽ “triều đại không bền lâu,
vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn
hao, muôn vật không hợp”.
-
Đại La là nơi thích hợp cho việc đóng đô. Bởi:
+ Địa thế phù hợp cho cả nhu cầu phòng thủ và phát triển (“Đã
đúng ngôi nam bắc đông tây; Lại tiện hướng nhìn sông dựa núi”).
+ Thuận lợi cho dân sinh sống, làm ăn, và thuận lợi cho phát
triển kinh tế nông nghiệp (“Địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng.
Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng rất mực phong phú, tốt
tươi”).
+ Ở vị trí trọng yếu, là nơi hội tụ của các nẻo đường đất
nước, đầu mối giao thông và giao lưu kinh tế, văn hóa (“Thật là chốn tụ hội
của bốn phương đất nước”).
+ Xứng đáng là bộ mặt của một quốc gia
độc lập, tự cường, có uy thế trong khu vực(“Cũng là kinh đô bậc nhất
của đế vương muôn đời”).
Từng ý kiến của tác giả bài chiếu đều rất
xác đáng, cho thấy cái nhìn sắc sảo của người lãnh đạo và trên hết, sự toàn tâm
cho đất nước và nhân dân.
Sau khi nêu ra các lý lẽ
của mình nhà vua đã không vội tự ý, lấy quyền lực vốn có để quyết định mà lại
hỏi các triều thần:“Trẫm muốn nhân địa
lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?”. Câu
hỏi của nhà vua đã được các triều thần đáp lại với sự nhiệt thành ủng hộ cao: “Bệ
hạ vì thiên hạ lập kế dài lâu, trên cho nghiệp đế được thịnh vượng lớn lao,
dưới cho dân chúng được đông đúc giầu có, điều lợi như thế ai giám không theo”.
Rồi nhà vua đáp lại thể
hiện sự đi đến quyết định cuối cùng theo lời của sử gia: “vua cả mừng”.
Như vậy thông qua buổi đại triều ấy phản ảnh được sự
sáng suốt của nhà vua trong cách làm về di chuyển kinh đô ra Thăng Long. Nguyện
vọng xây dựng một vương triều mạnh đã được Lý Thái Tổ chuyển hóa từ nguyện vọng
cá nhân, dòng họ thành nguyện vọng của dân tộc, quốc gia khi đưa ra những lý lẽ
của mình để bàn bạc trong buổi đại triều. Quyết định của vua đã được dân chúng
và trăm quan ủng hộ nhiệt thành. Nhà vua đã mang việc lớn ra bàn bạc và lấy ý
kiến của nhân dân của triều thần Đại Việt. Trên cơ sở sự đồng thuận cao của
nhân dân Đại Việt mới đưa ra quyết định cuối cùng đó là chuyển Hoa Lư ra Thăng
Long.
Ở đây không chỉ
có sự tôn trọng dân mà Lý Thái Tổ còn đặt cả niềm tin vào dân. Vận mệnh đất
nước, vận mệnh của vương triều, của dòng họ đã được Lý Thái Tổ trân trọng đặt
vào tay dân, “theo ý dân”.
Việc làm mang
tính dân chủ, trọng dân ấy của Lý Thái Tổ không chỉ là sự sáng suốt mà còn là
cái đức của người lãnh đạo quốc gia. Bởi điều này không phải dễ thực hiện đối
với người trong tay đang nắm quyền uy tối thượng. Chính vì xem trọng dân nên
mặc dù ở cương vị tối cao, có thể tự quyết mọi việc, kể cả việc dời đô nhưng Lý
Thái Tổ đã đặt lợi ích của dân lên trên, hỏi ý kiến nhân dân.
Chính thái độ,
tinh thần trọng dân đó của Lý Thái Tổ và sự đồng thuận của nhân dân là nguyên nhân dẫn đến việc dời đô
thành công và là tiền đề
cho Đại Việt phát triển mãi về sau.
Bài học kinh nghiệm của lịch sử thông qua việc dời
đô từ Hoa Lư ra Thăng Long chính là: lấy
dân làm gốc, dựa vào dân và phát huy sức mạnh của dân. Đó là chìa khóa của mọi
thành công mà bậc minh quân Lý Thái Tổ đã biết nắm giữ.
-------------
Hết-------------
Bài đăng trên Tạp chí Văn nghệ Ninh Bình
số 92(tháng 5-2011). Tr
93-95
http://www.daophatngaynay.com/vn/phatgiao-vn/lich-su/5167-Bai-hoc-ve-Dan-chu-tu-Thien-do-chieu-cua-Ly-Thai-To.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét