Thứ Năm, 6 tháng 10, 2011

Đinh Văn Viễn: Truyền thống hiếu học của người Ninh Bình qua một số bản hương ước cổ


TRUYỀN THỐNG HIẾU HỌC 

CỦA NGƯỜI NINH BÌNH 

QUA MỘT SỐ BẢN HƯƠNG ƯỚC CỔ

 Đinh Văn Viễn

Hương ước còn được gọi với nhiều tên khác như: khoán ước, tục lệ, thông lệ, lệ làng,… đó là những quy ước liên quan đến các mặt của đời sống làng xã được ghi chép thành văn bản (cũng có thể gồm cả những điều lệ không được ghi chép mà truyền khẩu trong dân gian) được cộng đồng làng xã cùng nhau tuân thủ.

Hương ước quy định về hầu hết các mặt hoạt động của làng xã người Việt như cách tổ chức và hoạt động của các thiết chế tổ chức trong làng xã; các hội tư văn, tư võ, hội thiện, phe giáp, xóm ngõ; các hoạt động xã hội như hội hè đình đám, tế lễ, tuần phòng, khao vọng, giao hiếu; và một số hoạt động kinh tế, … Trong đó nội dung đề cập đến việc khuyến học là một nội dung quan trọng.
Ninh Bình là vùng đất có truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo vì vậy trong các bản hương ước cổ của các làng xã Ninh Bình chứa đựng nhiều nội dung khuyến học, khuyến tài, mở mang giáo dục.
1. Hầu hết các bản hương ước của các làng đều đề cao giáo dục, khuyên bảo mọi người chăm lo việc học, coi giáo dục là vấn đề có ảnh hưởng đến sự thịnh – suy của làng, nước. Tiêu biểu như Hương ước làng Côi Trì(với tên gọi Côi Trì thông lệ): “Ấp ta là ấp văn hiến. Người học nên dùi mài kinh sử, nhất nhất chăm học đừng sợ dốt”. Sự thịnh suy của làng là ở vấn đề giáo hoá”.
2. Hương ước nhiều làng cũng có quy định việc khuyến khích người dạy, người học bằng vật chất, học điền, tức là để một số ruộng nhất định để chi phí cho việc học, trả lương cho thầy giáo trường làng và phát phần thưởng cho người học.
Tục lệ xã Vân Sấu(1893) quy định: Bản xã dành 4 sào ruộng công cho việc giấy bút, giao cho phó lý canh tác.
Khoán ước xã Quang Hiển (1877): bản xã cấp 3 sào ruộng công.
Côi Trì thông lệ (1783) cho biết làng Côi Trì đã trích ra 1 mẫu 5 sào ruộng công để làm ruộng học điền. Số ruộng này được giao cho gia đình các học trò cày cấy để trả công thày và tu sửa lớp học.
Không những đặt học điền trong hương ước các làng xã Ninh Bình còn quy định việc giúp đỡ cho học sinh nghèo mà chăm học, như cấp tiền giấy bút cho để theo học.
Côi Trì thông lệ (1783) quy định: Khi “người đi thi phải đến đền miếu đưa danh bạ ứng thí” thì làng sẽ cấp kinh phí với mức “mỗi quyển tiền là 2 mạch” .Khoán ước xã Quang Hiển(1877)quy định: Người nào được dự ứng thí.. sẽ được thưởng thêm tiền 2 quan 2 mạch… để cổ vũ lòng người, biểu dương phong tục.
3. Để khuyến khích người đi học, hương ước các làng ở Ninh Bình đều ghi việc miễn sưu sai tạp dịch cho người đi học.
“Trà tu xã điều ước” (1892) quy định: . Thí sinh đỗ liền 3 khóa, khóa sinh đỗ liền 5 khóa thì mới được miễn lệ thoái truất để cổ vũ kẻ sĩ học hành.
Khoán ước xã Quang Hiển(1877) quy định: “Những người theo học được miễn tạp dịch để hoằng dương đạo Tư văn”.
Ở Côi Trì không những miễn phu phen, tạp dịch cho những người có bằng cấp mà ngay cả những người đang học, đang đi thi vẫn nhận được sự ưu ái lớn. Thậm chí làng còn cử người đến tận nhà “hầu” để cho người học yên tâm đi thi. Trong làng có người thi Hương cống mà chưa biết thực hư, phải chờ sang năm nhà vua báo điểm thì làng cho mỗi ông 1 xuất đinh phu để hầu. Khi thi cử xong, có thực chức làng sẽ cắt cử 1 đinh phu  đến trông nom  việc nhà”.
4.  Khi người học thi đỗ về đều được làng xã tổ chức đón rước, mở tiệc mừng rất linh đình, thậm chí còn bỏ tiền công ra để làm nhà cho người đã đỗ cao.
Côi Trì thông lệ quy định: “Thí khoa người nào trúng Hương cống thì xã trưởng phải cho mõ rao khắp làng, sắp đặt 30 người trở lên áo mũ chỉnh tề đến chào mừng”.
“Trà tu xã điều ước”(1892) cho biết: “Người nào trong xã thi cử đỗ đạt và được ban bằng sắc, bản xã nên chuẩn bị nghi trượng nghênh đón để tỏ lòng trọng đạo. Lệ vọng nên có hạn định. Nếu hàng văn từ cử nhân, hàng võ từ tứ phẩm và quan ngũ phẩm các ngạch khác trở lên thì tiền khao vọng mỗi người là 30 quan. ,,… Bản xã có 1 bức trướng chúc mừng (trong dùng lụa đỏ, ngoài dùng vải lụa xanh), 10 quan thành tiền, trầu rượu tùy biện”. Nếu những người thuộc hàng văn võ, khoa mục, ấm sinh, quan viên tử và được nhận bằng sắc thì tiền khao vọng là 20 quan, 1 con lợn (giá 15 quan)….. Bản xã chúc mừng 1 câu đối (dùng lụa đỏ), 6 quan  thanh tiền, trầu cau tùy nghi. Còn nếu những người hàng văn võ từ thừa mục, chánh tổng, đội trưởng và chánh ngạch phó tổng, lại điển thì tiền khao vọng là 6 quan, lễ dùng 1 con lợn (giá 10 quan)….. bản xã mừng 3 quan, 1 câu đối (dùng lụa đỏ), trầu cau tùy biện để thể hiện sự sự có phân biệt thứ bậc.
5. Để tôn vinh những người học giỏi đỗ đạt, hương ước nhiều làng có những quy định ưu ái về chỗ ngồi trang trọng nhất chốn đình trung, được những phần biếu mỗi khi có lễ, hội,…
Côi Trì thông lệ (1783)  “Trà tu xã điều ước”(1892) đều có quy định về chỗ ngồi tương tự nhau: Bàn ngồi nên có sự phân biệt. Những người ở hàng văn thì từ cử nhân, hoàng võ từ tứ phẩm và các quan hàng ngũ phẩm ở các ngạch khác, mỗi người 2 cỗ. Những người thuộc hàng văn (lục, thất phẩm), hàng võ(ngũ, lục phẩm) cùng những người được ban tặng bằng sắc và ấm sinh quan viên tử, được ngồi 1 bàn trên, mỗi người 1 cỗ… Chánh lý trưởng, những người thi đỗ Nhị trường ngồi trên bàn hai, mỗi người một cỗ. Còn những người thi đỗ nhất trường, binh đinh, phó lý trưởng, thí sinh, biện lại thì ngồi giữa bàn 2, mỗi người 1 cỗ. Khóa sinh nếu có xác nhận là thực học, hương mục, xã trưởng sẽ cho phép ngồi dưới bàn 2, mỗi người 1 cỗ. Trong khi đó dân đinh, cứ 4 người ngồi 1 cỗ.
Khoán ước xã Quang Hiển(1877)quy định: Lệ hàng văn từ Hoàng giáp, phó bảng, cử nhân trở lên vào dịp hai kì tế xuân thu bản xã biếu lộc Thần 1 cỗ 20 thứ, thủ lợn 1 chiếc. Về hàng võ từ lãnh binh, chánh vệ, phó quản cơ trở lên, có dự lễ tế xuân thu nhị kì thì khoản biếu giống như hàng văn. Người nào biết chữ, được dự Hội tư văn mới được hành lễ. Không ở trong Hội tư văn thì không được tham dự.Người nào thi đỗ Nhất trường, Nhị trường … thì được ngồi bàn 2 người 1 cỗ.
6. Hương ước của một số làng còn chú ý khen thưởng tinh thần những người có công phục vụ, nuôi thầy đồ, những phụ nữ đã nuôi chồng con học hành. Đây là một điều hiếm thấy trong các hương ước ở các khu vực khác
Khoán ước xã Quang Hiển(1877) quy định: Người nào nuôi được thầy giỏi rèn cho sĩ tử, sẽ được phụ cấp 1 mẫu công điền để tỏ lòng tôn trọng đạo Tư văn.
Bên cạnh những quy ước khuyến khích việc học tập thì trong các hương ước cổ của Ninh Bình cũng có những điều khoản mang tính răn đe, phạt nặng những trường hợp lười nhác, trốn học, mượn có đi học để chơi, bỏ bê việc học. “Trà tu xã điều ước”(1892)quy định: Nếu ai bỏ học, tự tiện về quê nhà, khi phát hiện sẽ phạt tiền 6 quan (trong đó 3 quan thưởng cho người tố giác), để răn đe kẻ giả danh.  Hoặc Khoán ước xã Quang Hiển(1877): người nào chỉ mượn cớ học để du chơi, sẽ chiểu theo mà phạt 1 quan.
Qua một số nội dung trên ta thấy rõ tinh thần hiếu học của người dân Ninh Bình xưa. Đó thực sự là một truyền thống quý báu. Ngày nay, khi Đảng và Nhà nước thực sự quan tâm đến giáo dục, coi "Giáo dục - đào tạo và khoa học là quốc sách hàng đầu" thì công tác khuyến học được đẩy mạnh dưới nhiều hình thức.
Thiết nghĩ những vấn đề về khuyến học trong các hương ước cổ xưa cũng cần được khơi dậy và kế thừa những mặt tích cực tiếp tục phát huy truyền thống hiếu học của người xưa trong giai đoạn xây dựng đất nước ngày nay.
(Tạp chí Văn nghệ Ninh Bình tháng 9 năm 2011)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét