Thứ Ba, 25 tháng 12, 2012

Đinh Văn Viễn: Ninh Ngạn - Nhà Nho, nhà giáo dục tiến bộ


NINH NGẠN(1715-1781) – NHÀ NHO, NHÀ GIÁO DỤC TIẾN BỘ
Thạc sĩ Đinh Văn Viễn
Trường Đại học Hoa Lư, Ninh Bình

Đã có người ca ngợi tác phẩm Vũ vu thiển thuyết là những “lời vàng trên đá”, “cuốn gia phả viết trên đá độc nhất Việt Nam”,… nhưng với Ninh Ngạn - tác giả của cuốn sách này thì ít người biết đến và những hiểu biết về ông đôi khi còn thiếu chính xác. Vũ vu thiển thuyết đã phản ánh rõ một Ninh Ngạn là một nhà nho, nhà giáo dục tiến bộ.
Lược truyện các tác gia Việt Nam, (Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1971) cũng như Thư mục Hán Nôm (Thư viện Khoa học xã hội, 1969, in rônêô) không nhắc tới tác giả này. Gia phả họ Ninh ở Ninh Bình có ghi nhận ông viết Vũ Vu thiển thuyết Phong vịnh tập.
Vào năm 1984, cuốn Thơ văn Ninh Tốn (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội) được xuất bản đã chú ý đến nhân vật này, vì ông là thân sinh của Ninh Tốn.
Qua tấm bia Dã Hiên tiên sinh mộ biểu Vũ Vu thiển thuyết(hiện ở nhà thờ họ Ninh Côi Trì, đã được Bảo tàng Ninh Bình dịch năm 1998) kết hợp với các nguồn tư liệu khác nhất là gia phả giúp chúng ta biết đôi nét về nhân vật này.
Ninh Ngạn, hiệu Dã Hiên, Hy Tăng cư sĩ: Ông sinh năm Ất Mùi, Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715), mất năm Tân Sửu, Cảnh Hưng thứ 42 (1781). Tổ 8 đời nguyên quán ở Ninh Xá, Vọng Doanh, đến khai hoang lập ấp ở Côi Trì, Yên Mô từ đời Lê Hồng Đức. Bốn đời trước chuyên nghề nông, sau đó mới có người học hành, thi đỗ, thông thạo nho, y, lý, số. Bố ông tên huý là Lệnh tên thật là Dật tên hiệu là Hoằng nghị tiên sinh đỗ hương cống làm quan huyện ở Quảng Bình được ấn thụ Đông các đại học sĩ do có con trưởng đỗ Hoàng giáp làm thừa chỉ.
Quê gốc của họ Ninh ở Côi Trì đã được tác giả của Thơ văn Ninh Tốn(Nxb KHXH HN 1984) dẫn theo Vũ trung tuỳ bút của Phạm Đình Hồ (1768-1839) cho rằng quê tổ của Ninh Tốn ở làng Ninh Xá, huyện Chí Linh, Hải Dương. Chí Linh quả thật có làng Ninh Xá, đây là vùng quê nổi tiếng văn vật, nhiều người đỗ đạt, ví dụ như Nguyễn Mại đỗ Hoàng Giáp đời Lê Hy Tông... Thế nhưng làng Ninh Xá ở huyện Chí Linh này có đúng là quê tổ của họ Ninh không? Sách Ninh tướng công hành trạng Ninh Bình toàn tỉnh địa chí khảo biện đều chép ông tổ họ Ninh quê ở làng Ninh Xá huyện Vọng Doanh, đầu đời Hồng Đức đến khai khẩn đất hoang ở huyện Yên Mô, rồi lập ra làng Côi Đàm(tên cũ của Côi Trì. Năm 1573, thời Lê Thế Tông do kiêng húy vua (là Lê Duy Đàm) nên đổi Côi Đàm thành Côi Trì).
Sách Các trấn tổng xã danh bị lãm, cho biết làng Ninh Xá huyện Vọng Doanh thuộc vào phủ Nghĩa Hưng trấn Sơn Nam (nay là xã Yên Ninh, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định).(mãi đên năm 2010 một số người khi viết về họ Ninh ở Côi Trì vẫn nhầm lẫn tương tự).
Đất Ninh Xá này nằm ở huyện đồng bằng, chỉ cách huyện Yên Mô một dòng sông Đáy. Do vậy họ Ninh từ vùng đồng bằng đấp hẹp người đông, sang khai khẩn đất đai ở huyện miền núi gần đó, theo đúng phép chiếm xạ(5) do triều đình phong kiến lúc bấy giờ ban hành. Phạm Đình Hổ là người vùng Hải Dương rất quen thuộc dải đất Chí Linh, ông đã lầm Ninh Xá của huyện Vọng Doanh với Ninh Xá của huyện Chí Linh. Và hiện nay họ Ninh ở Côi Trì đã tìm lại được tổ tiên, nhận họ của mình ở Ninh Xá, Cát Đằng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.
Qua một số tài liệu cho chúng ta biết về Ninh Ngạn là người “thông minh đĩnh ngộ”, “phong tư cao, coi khinh giầu sang, chí bền chẳng đổi”, “học hành và xử thế tốt, 24 tuổi vào trường Quốc học, đỗ Cử nhân năm 36 tuổi. Năm 45 tuổi được bổ làm Hiến phó tán chức do trước đó có công triệu tập hương dũng tiểu phỉ ở Bồ Xuyên giúp dân sống yên ổn”.
Ông tuy sống nơi thôn dã nhưng vẫn chú ý giáo dục học trò, đem điều nghĩa cổ vũ Văn hội, đặt lệ nuôi các bậc kỳ lão, đề xuất việc khai hoang, vạch rõ cương giới ruộng đồng, mở chợ để dân trao đổi nông sản và đoàn kết hương thôn(Ông chính là người chủ trì việc phân chia cương giới, mở chợ Bút năm 1761). Dân trong vùng có điều gì mắc mớ đều đến hỏi ông, và răm rắp tuân theo lời răn bảo. Trong gia đình, khi người anh cả mất, ông nuôi dạy các em, thờ cha mẹ một niềm hiếu kính. Vợ chết, ông nuôi dạy con rất chu đáo cho đến khi thành người hữu ích cho xã hội.
Khi con trưởng là Ninh Tốn được tiến triều giữ chức phó Tri Hình phiên thăng Hiến sứ Sơn Nam, về sau đỗ Hội nguyên tiến sĩ khoa Mậu Tuất năm 1778 được giữ chức Thiêm sai Tri binh phiên, làm ở Viện cơ mật, Thư hình bộ Hữu bộ thị lang, Đông các đại học sĩ. Ông có gửi thư cho con trong thư viết: “Chở thuyền và lật thuyền là nước, làm cho vinh và cũng làm cho nhục là quan. Ta có cái đầu của văn trung tử. Người đời tuy có nhiều trước tác nổi tiếng là tác phẩm văn chương tử trung thuyết, nếu con biết chính tâm tu thân, lấy trung thuận mà thờ vua thanh liêm, chăm chỉ mà làm việc thì so với phụng sự bằng ngọt bùi còn quý hơn nhiều”. Cũng do dạy con đến nơi đến chốn, thi đỗ đạt trở thành người hữu ích cho xã hội mà năm Canh Tý 1780 ông được thụ Hàn lâm viện Thị độc.
Bốn lần thi hội không toại nguyện ông chán cảnh trường trung, ghét chuyện thế, lợi … về ở ẩn núi Vũ vu “điềm tĩnh tu dưỡng…. về già bỗng siêu ngộ,…đem tâm đắc viết sách, đặt lời, nhan đề Thiển thuyết để dạy cháu con.
Năm 1781, sau một trận sốt, biết triệu chứng gần đất xa trời, Ninh Ngạn bèn làm câu đối tự viếng:
Lục thập thất niên mộng kiếp, dĩ giác thử sinh
Bát bách duệ tuế thọ my năng vô nhất tử.
Tạm dịch:
Sáu mươi bảy tuổi mà kiếp này đã tỉnh
Hơn tám trăm năm hưởng thọ một chết ai không.
Ông cho gọi con cháu vào để nhìn lần cuối, rồi bảo với các con trai: “Ta nằm đã ngay ngắn chưa? và nói: Ta sắp cùng Nhan, Tăng, Tư, Mạnh cùng đi du ngoạn. Ông tự đặt tên thuỵ Văn Định tiên sinh, rồi nhẹ nhàng trút hơi thở cuối cùng. Khi ông mất dân trong làng thương tiếc lập hương án trên đường đưa linh cữu, bầu ông làm hậu thần, phối thờ ông cùng với Thành hoàng ở đình làng. Tiến sĩ Vũ Huy Đĩnh người bạn chí thân đang ở Phú Xuân được tin có viết bài ký bia thần đạo tướng công kể về hành động của người bạn đã mất trong đó có câu: “ Sống không sai lẽ phải, chết được làm thần”.
Tác phẩm Vũ Vu thiển thuyết của Ninh Ngạn được con trai là Ninh Tốn dựng vào năm Cảnh Hưng thứ 42 (1781), tức là ngay sau khi cha mất, hiện đặt tại nhà thờ họ Ninh ở xã Yên Mỹ, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Tác phẩm gồm 2 phần. Phần 1 là lời dẫn ghi lại sự nghiệp của Ninh Ngạn và tác phẩm của ông.
Bài văn có đoạn: “Tốn tôi vâng lời di huấn của cha, thẹn nỗi chưa làm theo được hết, bèn tự tay chép sách của Người vào đá rồi thuê thợ khắc để chỉ bảo cho đám con cháu muốn dốc lòng cầu đạo”…
Phần 2 khắc toàn văn bộ sách gồm 2 quyển thượng, hạ, gồm 45 chương sách. Trong đó có các chương 1 và 2 bàn về chữ hiếu, cách đánh giá về hiếu và bất hiếu; chương 3 bàn về quan hệ giữa nuôi và dạy con cái trong gia đình; chương 6 và 7 bàn về quan hệ vợ chồng; chương 8 và 9 bàn về Nhân và Tín; chương 10 bàn về đạo làm người; chương 12 bàn về ba loại “tâm bệnh” là giầu, sang và thọ; chương 13 bàn về việc phải coi điều thiện làm thầy, thấy ai có điều thiện, dù là kẻ dưới đều nên coi là thầy mà học; chương 29 và 30 bàn về việc làm điều tốt không cốt ở tiếng khen, đánh giá người phải xét ở lời nói và việc làm; chương 31 và 32 bàn về việc lập đức, lập thân và lập danh; chương 33 và 34 chuyên bàn về những điều cần tránh như rượu chè, cờ bạc, sắc dục, lười biếng, nói năng khinh xuất; chương 39 và 40 bàn về sống – chết, vinh – nhục ở đời…
Vũ vu thiển thuyết được đánh giá là tác phẩm văn học, triết học có giá trị. Tác phẩm chứa đựng những quan niệm tiến bộ trong nhận thức về Nho giáo, về giáo dục học.
Nho giáo vốn dĩ rất coi trọng đạo trung - hiếu (trung với vua, trung quân ái quốc; hiếu với cha mẹ - tổ tiên); Tam cương (vua - tôi, cha - con, vợ - chồng); Ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Đạo trung hiếu cương thường được coi là rường cột của xã hội phong kiến Trung Quốc và Việt Nam. Tuy nhiên Ninh Ngạn có những quan niệm rất khác, rất linh hoạt, mang tính thực tiễn, chứa đựng tinh thần nhân văn, nhân bản và cả sự sáng tạo.
Về “trung” nếu như quan niệm của Nho gia theo kiểu “vua bảo chết mà không chết là bất trung” thì Ninh Ngạn cho rằng: “vua cho việc ấy là trung, chưa đủ là trung”. Ông cho rằng trung với vua không chỉ là tuân mệnh vua, nếu gặp ông vua tàn ác như Kiệt, Trụ thì “không coi là có vua, …thường làm điều thiện mới là trung”.
Về chữ “Hiếu”, Ninh Ngạn cho rằng những biểu hiện bề ngoài, việc người đời đáng giá chưa đủ coi là có hiếu mà quan trọng hơn cả chính là “Hiếu phải đạt đến đức”, “chủ yếu ở cái tâm”.
“Tín” là khi làm việc gì đó cốt sao đểkhông thẹn với trời đất”.
Người có nhân thì phải biết mang hết sức ra giúp đỡ người khác:lúc có người cầu mong chữa bệnh, mang khả năng ra nâng đỡ họ”.
Người quân tử phải “liêm, trực” , phải học “đạo lý”, “tu thân, học tập, lập thân, nên danh” để “có khả năng để tiếng cho đời, sau có thể mang vinh hạnh cho cha mẹ, vợ, con, anh, em”. “Ngày thường ở đời, lúc chưa thành đạt, thường lấy việc có ích mà làm. Khi thành đạt, làm vẻ vang tổ tiên, cha mẹ, lấy việc làm mà cảm hoá mọi người, đưa họ cùng về đường thiện. Khi sống thì có ích cho đời, khi mất để tiếng cho đời sau”.
Cũng qua tác phẩm Vũ vu thiển thuyết còn phản ánh những quan niệm tiến bộ về giáo dục của Ninh Ngạn. Ông cho rằng việc học trước hết phải là “học đạo làm người”. Mục đích của việc học là để “lập thân, nên danh”, “để tiếng cho đời”. “Việc học của người quân tử thì tâm chẳng ngoài cầu đạo, tiến tới lập thân”.
Người làm thày là người “làm điều thiện”. Người thày phải là người mẫu mực: “Khéo léo mà làm thày, chắc chưa đủ đạo vậy. Nên xét theo lời nói có thể là thày. Lời nói có thể là thày (khiến theo) việc làm của thày có thể là thày”.
Với ông việc học không phải chỉ biết học thuộc lòng sách vở mà phải biết suy nghĩ, ứng biến cho phù hợp. “Việc học có thể ứng biến, việc học đạo Nho ta có hai chữ “kinh”(bất biến) “quyền”(biến), lúc cần có thể kinh, quyền”.
Đặc biệt ông chỉ ra hạn chế trong cách học của người đương thời: “Việc học của người ngày nay có khả năng lý thuyết rất ít, … lời nói gần lý mà thực lại xa, không sáng tỏ lý”. Từ đó ông cho rằng: “Việc học của người hiền từ không câu nệ cổ xưa mà gắn với đời, cổ xưa có thể không phù hợp với nay cho nên không nệ cổ”. Đây là một quan niệm tiến bộ của Ninh Ngạn.
Đương thời, Ninh Ngạn cũng như tác phẩm Vũ vu thiển thuyết được đánh giá rất cao. Tiến sĩ Chu Doãn Lệ (hiệu Hy Thích, người Dục Tú, Đông Ngàn, Bắc Ninh) viết: “người đời nay học mà biết nói đến nghĩa lý quả rất hiếm. Thảng hoặc có đi nữa thì cũng thường là người thiển cận, bị hạn chế ở chỗ đứng thấp. Người cao xa thì bị đắm đuối vào chỗ viển vông, người khéo léo thì cố đi vào gọt rũa, mài đẽo, chứ chưa hề ai nói gần mà chỉ được xa, lời không phiền toái rườm rà mà lý rất rõ như ở Vũ vu thiển thuyết”. Đó là sự đánh giá cao, khách quan về Vũ vu thiển thuyết và Ninh Ngạn, một nhà hiền triết kiêm nhà thơ, nhà giáo dục học, nhà đạo đức học tiến bộ.
--------------***--------------
Tạp chí Thế giới mới số 38 (1004) ngày 1-10-2012

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét