Thứ Ba, 25 tháng 12, 2012

Đinh văn Viễn: Về "Tùy Hối xã địa bạ" thời Tây Sơn


VỀ “TUỲ HỐI XÃ ĐỊA BẠ” THỜI TÂY SƠN
ĐINH VĂN VIỄN([1])
Dưới thời Tây Sơn, Tuỳ Hối là một xã thuộc tổng Tri Hối, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. (Hiện nay Tùy Hối là một thôn thuộc xã Gia Tân, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình). Nơi đây gắn liền với Nguyên Từ Quốc Mẫu và Trần Quốc Tảng. Theo bản Trần Triều Ngọc phả lưu tại đền Quốc Mẫu ở làng Tuỳ Hối cho biết: sau khi Hưng Đạo Đại Vương mất (ngày 20 tháng 8 năm 1300). Đức Hưng Nhượng cùng thân mẫu Trang Nương …đến xã Tùy Hối… thiết lập cung sở, tổ chức cho dân khai hoang lập làng, khuyên bảo nhân dân phải cần cù lao động, lấy nông nghiệp làm gốc, lấy nhân nghĩa dạy dân, phải ăn ngay ở thẳng, cùng nhau đoàn kết, trên thuận dưới hòa, trở thành thuần phong mỹ tục. Khi Quốc Mẫu mất Hưng Nhượng vương đã xin với nhà vua miễn thuế cho dân làng Tuỳ Hối.
Thời Tây Sơn, cuối thế kỷ XVIII, tình hình ruộng đất ở Bắc Hà phần lớn bị bỏ hoang. Làng xóm dân cư phiêu tán khá nhiều. Tình hình này đã được một số nhà nghiên cứu đề cập (Theo điều trần của Ngô Thì Sĩ: Vùng đồng bằng Bắc Bộ có tất cả 4 trấn, tổng cộng là 9668 xã, thôn thì đã có tới 182 xã phiêu tác hoàn toàn, 443 xã phiêu tán phần lớn, 373 xã phiêu tán vừa hoặc phải nhập vào xã khác[2]). Cuối thế kỷ XVIII, Tùy Hối là một xã điển hình cho hiện tượng dân cư phiêu tán, ruộng đất bị bỏ hoang. “Tùy Hối xã địa bạ” (được lập năm thứ 3 triều Quang Trung) sẽ cung cấp cho ta thấy rõ nhưng thông tin về tình hình ruộng đất, làng xã nơi đây hồi cuối thế kỷ XVIII.  
     Chúng tôi xin được giới thiệu về “Tuỳ Hối xã địa bạ” và một số thông tin về tình hình ruộng đất ở Tuỳ Hối (nay thuộc Gia Tân, Gia Viễn, Ninh Bình) cuối thế kỷ XVIII.
1. Về văn bản: “Tuỳ Hối xã địa bạ” (Quang Trung năm thứ 3) được chép ở phần đầu của cuốn “Tùy Hối xã địa bạ” (Minh Mạng 12-1831), hiện được lưu giữ tại Viện Hán Nôm, ký hiệu AG a4/16. Qua nội dung văn bản cho biết: Địa bạ được lập lần đầu vào tháng 5 năm Quang Trung thứ 3 (1790). Những người chịu trách nhiệm về việc biên chép địa bạ này gồm: Khán thủ Lâm Văn Thần, Tả khai bạ Nguyễn Văn Cường. Nội dung địa bạ được xác nhận bởi lý trưởng Phạm Thị Thấu.
2. Qua các thông tin của địa bạ cho chúng ta biết về tình hình sở hữu ruộng đất ở Tuỳ Hối thời Tây Sơn như sau:
Công điền 350 mẫu 2 sào 7 thước
-   Nhị đẳng 110 mẫu 5 sào 5 thước
-  Tam đẳng 230 mẫu 6 sào 12 thước
Xứ Bảo Tường: 83 mẫu.
- Nội thực canh điền 20 mẫu.
- Nội phế canh 63 mẫu.
Xứ Đông Nha: 36 mẫu 5 sào.
- Đồn điền quan khai canh 29 mẫu.
                        - Bản xã thực canh điền 5 sào.
- Nội phế canh điền 7 mẫu 10 thước.
            Xứ Tiền Hối Chí Linh: 23 mẫu.
- Nội thực canh điền 4 mẫu 9 sào.
                        - Nội phế canh điền 18 mẫu 1 sào.
            Xứ Thăng Đồng: 30 mẫu, đều là phế canh
            Xứ Bảo Linh: 177 mẫu 6 sào .
Tư điền xứ Lộc Đề: 160 mẫu 1 sào 4 thước(đều hạng 2).
- Nội thực canh điền 2 mẫu 8 sào 4 thước.
- Nội phế canh điền 113 mẫu 3 sào 4 tấc.
Thần từ điền xứ Đông Nha: 5 mẫu (đều là phế canh).
Khu Võ chùa:  14 mẫu.
Thần từ thổ xứ Hậu Quan: 1 mẫu 1 sào.
Phật tự thổ xứ Hậu Quan: 8 sào.
Tha ma xứ Hậu Quan: 30 mẫu 7 sào.
Thổ phụ xứ Hậu Quan: 15 mẫu.
Thổ phụ xứ Hậu Linh : 20 mẫu.
Từ những thông tin trên có thể cho chúng ta một số nhận xét bước đầu về tình hình ruộng đất ở Tùy Hối hồi cuối thế kỷ XVIII như sau:
Ở cuối thế kỷ XVIII, công điền vẫn chiếm tỉ lệ cao (350 mẫu 2 sào 7 thước = 56,4%) trong tổng số ruộng đất của Tùy Hối. Ruộng đất tư ở Tùy Hối chiếm tỷ lệ thấp hơn rất nhiều (160 mẫu, 1 sào, 4 thước, chiếm 25,8%. Nếu ta coi loại thổ trạch viên cư là loại đất tư thì tổng số ruộng đất tư ở Tùy Hối cũng chỉ chiếm 32%).
Điểm nổi bật trong tình hình ruộng đất Tùy Hối cuối thế kỷ XVIII đó là hiện tượng hoang hóa với số lượng lớn, trên mọi loại ruộng đất. Không chỉ ruộng đất công mà cả ruộng đất tư, thậm chí cả thần từ, phật tự cũng bị bỏ hoang. Có đến 67.49% diện tích ruộng công, 70.75% diện tích ruộng tư bị bỏ hoang. Điều này sẽ tác động sâu sắc tới tình hình ruộng đất ở các giai đoạn sau. Một điểm cần lưu ý là Tùy Hối đã từng là một nơi trù phú, dân cư đông đúc trong các thế kỷ XI, XII, XIII cùng với vai trò của Tô Hiến Thành, Trần Quốc Tảng khi họ sinh sống tại vùng đất này. Vậy mà cuối thế kỷ XVIII, sau thời gian chiến tranh loạn lạc, năm 1790, tức là gần 2 năm sau khi “Chiếu khuyến nông” của vua Quang Trung được ban hành, Tùy Hối gần như là một làng hoang. Từ tình hình này cho ta ra đặt câu hỏi: Kết quả việc giải quyết vấn đề dân lưu tán, ruộng đất của triều đại Tây Sơn đạt được như thế nào?
(Bài tham gia Hội nghị Hán Nôm học năm 2012, Viện Hán Nôm)
----------------------------------
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.          Ninh Bình tỉnh, Gia Viễn huyện, Tri Hối tổng, Tùy Hối xã địa bạ, Viện Hán Nôm, ký hiệu AG a4/16.
2.          Trần triều Ngọc phả, bản lưu tại đền Quốc Mẫu (Tùy Hối-Gia Tân-Gia Viễn-Ninh Bình).



[1] : Thạc sỹ, Đại học Hoa Lư, Ninh Bình.
[2] : Dẫn lại theo Trương Hữu Quýnh (cb) trong Đại cương Lịch sử Việt Nam, Tập 1, Nxb Giáo Dục, HN 1998, tr 410.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét